Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa. (Ga 1:1)
Từ chương 1 đến chương 10
1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất.
2 Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
3 Thiên Chúa phán : “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng. 4 Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ nhất.
6 Thiên Chúa phán : “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là “trời”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ hai.
9 Thiên Chúa phán : “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
11 Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. 12 Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ ba.
14 Thiên Chúa phán : “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn : vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm ; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ tư.
20 Thiên Chúa phán : “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” 21 Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển ; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ năm.
24 Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại : gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26 Thiên Chúa phán : “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” 29 Thiên Chúa phán : “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy.” 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp ! Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ sáu.
1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất.
2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo. Ngày ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa làm ra đất và trời, 5 chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. 6 Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. 7 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. 8 Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.
9 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. 10 Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh. 11 Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi có vàng ; 12 vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc. 13 Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn ; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút. 14 Tên nhánh thứ ba là Tích-ra ; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát. 15 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. 16 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng : “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn ; 17 nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.”
18 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán : “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó. 19 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì : hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. 20 Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. 21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.
23 Con người nói :
“Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi !
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.”
24 Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.
25 Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
1 Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà : “Có thật Thiên Chúa bảo : ‘Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không ?’ 2 Người đàn bà nói với con rắn : “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. 3 Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo : ‘Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.'” 4 Rắn nói với người đàn bà : “Chẳng chết chóc gì đâu ! 5 Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” 6 Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình ; ông cũng ăn. 7 Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng : họ mới kết lá vả làm khố che thân.
8 Nghe thấy tiếng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa. 9 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa gọi con người và hỏi : “Ngươi ở đâu ?” 10 Con người thưa : “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” 11 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa hỏi : “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng ? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không ?” 12 Con người thưa : “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.” 13 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa hỏi người đàn bà : “Ngươi đã làm gì thế ?” Người đàn bà thưa : “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn.” 14 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán với con rắn :
“Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất
trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.
Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.
15 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy ;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”
16 Với người đàn bà, Chúa phán :
“Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén ;
ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.
Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.”
17 Với con người, Chúa phán : “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng : ‘ Ngươi đừng ăn nó ‘,
nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi ;
ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi,
mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
18 Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.
19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,
cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.
Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”
20 Con người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh. 21 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và mặc cho họ. 22 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa nói : “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi.” 23 ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. 24 Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh.
1 Con người ăn ở với E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in. Bà nói : “Nhờ ĐỨC CHÚA, tôi đã được một người.” 2 Bà lại sinh ra A-ben, em ông. A-ben làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề cày cấy đất đai. 3 Sau một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên ĐỨC CHÚA. 4 A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. ĐỨC CHÚA đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, 5 nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. 6 ĐỨC CHÚA phán với Ca-in : “Tại sao ngươi giận dữ ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt ? 7 Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không ? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi ; nhưng ngươi phải chế ngự nó.” 8 Ca-in nói với em là A-ben : “Chúng mình ra ngoài đồng đi !” Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình.
9 ĐỨC CHÚA phán với Ca-in : “A-ben em ngươi đâu rồi ?” Ca-in thưa : “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao ?” 10 ĐỨC CHÚA phán : “Ngươi đã làm gì vậy ? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta ! 11 Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. 12 Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất.” 13 Ca-in thưa với ĐỨC CHÚA : “Hình phạt dành cho con quá nặng không thể mang nổi. 14 Đây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” 15 ĐỨC CHÚA phán với ông : “Không đâu ! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy.” ĐỨC CHÚA ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. 16 Ông Ca-in đi xa khuất mặt ĐỨC CHÚA và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen.
17 Ông Ca-in ăn ở với vợ. Bà thụ thai và sinh ra Kha-nốc. Ông xây một thành, và lấy tên con mình là Kha-nốc mà đặt cho thành ấy. 18 Kha-nốc sinh I-rát ; I-rát sinh Mơ-khu-gia-ên ; Mơ-khu-gia-ên sinh Mơ-thu-sa-ên ; Mơ-thu-sa-ên sinh La-méc. 19 La-méc lấy hai vợ, một bà tên là A-đa, bà thứ hai tên là Xi-la. 20 Bà A-đa sinh Gia-van ; ông này là ông tổ các người ở lều và nuôi súc vật. 21 Em ông này tên là Giu-van ; ông này là ông tổ các người chơi đàn thổi sáo. 22 Còn bà Xi-la thì sinh Tu-van Ca-in ; ông này là ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt. Em gái Tu-van Ca-in là Na-a-ma.
23 Ông La-méc nói với các bà vợ :
“A-đa và Xi-la, hãy nghe tiếng ta !
Thê thiếp của La-méc, hãy lắng tai nghe lời ta !
Vì một vết thương, ta đã giết một người,
vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ.
24 Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy,
nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy !”
25 Ông A-đam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt tên là Sết ; bà nói : “Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay cho A-ben, vì Ca-in đã giết nó.” 26 Ông Sết cũng sinh được một con trai và đặt tên là E-nốt. Bấy giờ, người ta bắt đầu kêu cầu danh ĐỨC CHÚA.
1 Đây là gia phả ông A-đam : Ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa. 2 Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là “người”, ngày họ được sáng tạo.
3 Khi ông A-đam được một trăm ba mươi tuổi, thì ông sinh ra một người con trai giống như ông, theo hình ảnh ông, và đặt tên là Sết. 4 Sau khi sinh ông Sết, ông A-đam sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 5 Tổng cộng ông A-đam sống được chín trăm ba mươi năm, rồi qua đời.
6 Khi ông Sết được một trăm lẻ năm tuổi, thì sinh ra E-nốt. 7 Sau khi sinh E-nốt, ông Sết sống tám trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái. 8 Tổng cộng ông Sết sống được chín trăm mười hai năm, rồi qua đời.
9 Khi ông E-nốt được chín mươi tuổi, thì sinh ra Kê-nan. 10 Sau khi sinh Kê-nan, ông E-nốt sống tám trăm mười lăm năm và sinh ra con trai con gái. 11 Tổng cộng ông E-nốt sống được chín trăm lẻ năm năm, rồi qua đời.
12 Khi ông Kê-nan được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Ma-ha-lan-ên. 13 Sau khi sinh Ma-ha-lan-ên, ông Kê-nan sống tám trăm bốn mươi năm và sinh ra con trai con gái. 14 Tổng cộng ông Kê-nan sống được chín trăm mười năm, rồi qua đời.
15 Khi ông Ma-ha-lan-ên được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Gie-rét. 16 Sau khi sinh Gie-rét, ông Ma-ha-lan-ên sống tám trăm ba mươi năm và sinh ra con trai con gái. 17 Tổng cộng ông Ma-ha-lan-ên sống được tám trăm chín mươi lăm năm, rồi qua đời.
18 Khi ông Gie-rét được một trăm sáu mươi hai tuổi, thì sinh ra Kha-nốc. 19 Sau khi sinh Kha-nốc, ông Gie-rét sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 20 Tổng cộng ông Gie-rét sống được chín trăm sáu mươi hai năm, rồi qua đời.
21 Khi ông Kha-nốc được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Mơ-thu-se-lác. 22 Sau khi sinh Mơ-thu-se-lác, ông Kha-nốc đi với Thiên Chúa ba trăm năm và sinh ra con trai con gái. 23 Tổng cộng ông Kha-nốc sống được ba trăm sáu mươi lăm năm. 24 Sau khi đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa, vì Thiên Chúa đã đem ông đi.
25 Khi ông Mơ-thu-se-lác được một trăm tám mươi bảy tuổi, thì sinh ra La-méc 26 Sau khi sinh La-méc, ông Mơ-thu-se-lác sống bảy trăm tám mươi hai năm và sinh ra con trai con gái. 27 Tổng cộng ông Mơ-thu-se-lác sống được chín trăm sáu mươi chín năm, rồi qua đời.
28 Khi ông La-méc sống được một trăm tám mươi hai tuổi, thì sinh ra một người con trai. 29 Ông đặt tên cho con là Nô-ê ; ông nói : “Khi tay chúng ta phải làm lụng cực nhọc, thì trẻ này sẽ đem lại cho chúng ta niềm an ủi phát xuất từ đất đai ĐỨC CHÚA đã nguyền rủa.” 30 Sau khi sinh ông Nô-ê, ông La-méc sống năm trăm chín mươi lăm năm và sinh ra con trai con gái. 31 Tổng cộng ông La-méc sống được bảy trăm bảy mươi bảy năm, rồi qua đời.
32 Khi ông Nô-ê được năm trăm tuổi, thì sinh ra Sêm, Kham và Gia-phét.
1 Vậy khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, 2 thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp ; những cô họ ưng ý thì họ lấy làm vợ. 3 ĐỨC CHÚA phán : “Thần khí của Ta sẽ không ở lại mãi mãi trong con người, vì con người chỉ là xác phàm, tuổi đời của nó sẽ là một trăm hai mươi năm.” 4 Có những người khổng lồ trên mặt đất vào thời bấy giờ và cả sau đó nữa, khi các con trai Thiên Chúa đi lại với con gái loài người, và các cô này sinh cho họ những người con. Đó là những anh hùng thuở xưa, những người có tên tuổi.
5 ĐỨC CHÚA thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. 6 ĐỨC CHÚA hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. 7 ĐỨC CHÚA phán : “Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng.” 8 Nhưng ông Nô-ê được đẹp lòng ĐỨC CHÚA.
9 Đây là gia đình ông Nô-ê : Ông Nô-ê là người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời, và ông đi với Thiên Chúa. 10 Ông Nô-ê sinh ba con trai là Sêm, Kham và Gia-phét. 11 Đất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và đầy bạo lực. 12 Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất.
13 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê : “Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì tại chúng mà đất đầy bạo lực : này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất. 14 Ngươi hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bách. Ngươi sẽ làm tàu có những ngăn và lấy nhựa đen mà trám cả trong lẫn ngoài. 15 Ngươi sẽ làm tàu thế này : chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều cao mười lăm thước. 16 Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui cách phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông ; ngươi sẽ làm tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên. 17 Phần Ta, Ta sắp cho hồng thuỷ, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất, để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí dưới gầm trời ; mọi loài trên mặt đất sẽ tắt thở. 18 Nhưng Ta sẽ lập giao ước của Ta với ngươi ; ngươi hãy vào tàu, ngươi cùng với các con trai ngươi, vợ ngươi và vợ của các con trai ngươi. 19 Trong mọi sinh vật, mọi xác phàm, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với ngươi ; phải có một con đực và một con cái. 20 Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại vật bò dưới đất, mỗi loại một đôi sẽ đến với ngươi, để ngươi giữ cho chúng sống. 21 Phần ngươi, hãy lấy mọi thứ ăn được và tích trữ cho mình ; đó sẽ là lương thực của ngươi và của chúng.” 22 Ông Nô-ê đã làm như vậy ; ông làm đúng như Thiên Chúa đã truyền cho ông.
1 ĐỨC CHÚA phán bảo ông Nô-ê : “Ngươi hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này. 2 Trong mọi loài vật thanh sạch, ngươi sẽ lấy bảy đôi, con đực và con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, thì một đôi, con đực và con cái, 3 trong các loài chim trời cũng lấy bảy đôi, trống và mái, để giữ giống trên khắp mặt đất. 4 Vì bảy ngày nữa Ta sẽ đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra.” 5 Ông Nô-ê làm đúng như ĐỨC CHÚA đã truyền.
6 Ông Nô-ê được sáu trăm tuổi khi hồng thuỷ, nghĩa là nước lụt, xảy đến trên mặt đất.
7 Để tránh nước hồng thuỷ, ông Nô-ê vào tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ của các con trai ông. 8 Trong các loài vật thanh sạch và các loài vật không thanh sạch, trong các loài chim và mọi loài vật bò dưới đất, 9 cứ từng đôi, đực và cái, đến với ông Nô-ê mà vào tàu, như Thiên Chúa đã truyền cho ông Nô-ê. 10 Bảy ngày sau, nước hồng thuỷ tràn trên mặt đất.
11 Năm sáu trăm đời ông Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy tháng ấy, vào ngày đó, tất cả các mạch nước của vực thẳm vĩ đại bật tung, các cống trời mở toang. 12 Mưa đổ xuống đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm.
13 Chính ngày đó, ông Nô-ê vào tàu với các con trai ông là Sêm, Kham, Gia-phét, cùng với họ có vợ ông và ba người vợ của các con trai ông, 14 cũng như mọi loài vật, mọi loài gia súc, mọi loài vật bò dưới đất, mọi loài chim chóc, mọi vật có cánh. 15 Chúng đến với ông Nô-ê trên tàu, cứ từng đôi một, thuộc mọi xác phàm có sinh khí. 16 Chúng đi vào, một đực một cái thuộc mọi xác phàm ; chúng đi vào, theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Nô-ê. Rồi ĐỨC CHÚA đóng cửa lại sau khi ông vào.
17 Cơn hồng thuỷ kéo dài bốn mươi ngày trên mặt đất. Nước tăng thêm và nâng tàu lên, khiến tàu ở cao hơn mặt đất. 18 Nước dâng và tăng thêm nhiều trên mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. 19 Nước dâng lên ngày càng nhiều trên mặt đất, và mọi núi cao khắp nơi dưới gầm trời đều bị phủ lấp. 20 Nước dâng lên cao hơn núi bảy thước khiến núi bị phủ lấp. 21 Mỗi xác phàm di động trên mặt đất đều tắt thở : chim chóc, gia súc, thú vật, mọi vật lúc nhúc trên mặt đất, và mọi người. 22 Mọi loài có sinh khí trong lỗ mũi, mọi loài ở trên cạn đều chết hết. 23 ĐỨC CHÚA xoá bỏ mọi loài có trên mặt đất, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời ; chúng bị xoá bỏ khỏi mặt đất, chỉ còn lại ông Nô-ê và những gì ở trong tàu với ông. 24 Nước dâng lên trên mặt đất suốt một trăm năm mươi ngày.
1 Thiên Chúa nhớ đến ông Nô-ê, mọi thú vật và mọi gia súc ở trong tàu với ông. Thiên Chúa cho gió thổi ngang qua đất, và nước hạ xuống. 2 Các mạch nước của vực thẳm và các cống trời đóng lại ; trời tạnh mưa. 3 Nước từ từ rút khỏi mặt đất ; hết một trăm năm mươi ngày thì nước xuống. 4 Vào tháng bảy, ngày mười bảy tháng ấy, tàu đậu lại trên vùng núi A-ra-rát. 5 Nước tiếp tục xuống cho đến tháng mười ; và ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi xuất hiện.
6 Hết bốn mươi ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu, 7 và ông thả con quạ ra. Nó bay ra, lượn đi lượn lại cho đến khi nước khô trên mặt đất. 8 Rồi từ trong tàu ông lại thả con bồ câu, để xem nước đã giảm trên mặt đất chưa. 9 Nhưng con bồ câu không tìm được chỗ đậu chân, nên trở về tàu với ông, vì còn nước trên khắp mặt đất. Ông bèn giơ tay bắt lấy nó mà đưa vào trong tàu với ông. 10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra khỏi tàu một lần nữa. 11 Vào buổi chiều, con bồ câu trở về với ông, và kìa trong mỏ nó có một nhành lá ô-liu tươi ! Ông Nô-ê biết là nước đã giảm trên mặt đất. 12 Ông lại đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra, nhưng nó không trở về với ông nữa.
13 Năm sáu trăm lẻ một đời ông Nô-ê, tháng giêng, ngày mồng một tháng ấy, nước đã khô ráo trên mặt đất. Ông Nô-ê dỡ mái tàu ra và thấy mặt đất đã khô ráo. 14 Tháng hai, ngày hai mươi bảy tháng ấy, đất đã khô.
15 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê rằng : 16 “Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. 17 Mọi loài vật ở với ngươi, tất cả những gì là xác phàm : chim chóc, gia súc, mọi giống vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi ; chúng phải lúc nhúc trên mặt đất, phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất.” 18 Ông Nô-ê ra khỏi tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ của các con trai ông. 19 Mọi loài vật, mọi gia súc, mọi chim chóc, mọi vật bò dưới đất ra khỏi tàu, theo từng giống.
20 Ông Nô-ê dựng một bàn thờ để kính ĐỨC CHÚA. Ông đã lấy một số trong các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. 21 ĐỨC CHÚA ngửi mùi thơm ngon, và ĐỨC CHÚA tự nhủ : “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Lòng con người toan tính điều xấu từ khi còn trẻ, nhưng Ta sẽ không bao giờ còn sát hại mọi sinh vật như Ta đã làm !
22 Bao lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt,
trời lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông,
ban ngày và ban đêm, sẽ không ngừng đắp đổi.”
1 Thiên Chúa ban phúc lành cho ông Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. 2 Mọi dã thú, mọi chim trời, mọi giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các ngươi : chúng được trao vào tay các ngươi. 3 Mọi loài di động và có sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi ; Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4 Tuy nhiên các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức là máu. 5 Nhưng Ta sẽ đòi mỗi con vật phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi ; Ta sẽ đòi con người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em mình.
6 Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra,
vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa.
7 Về phần các ngươi, hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, hãy lan tràn và nảy nở thật nhiều trên mặt đất.”
8 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng : 9 “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, 10 và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi : chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. 11 Ta lập giao ước của Ta với các ngươi : mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thuỷ huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thuỷ để tàn phá mặt đất nữa.”
12 Thiên Chúa phán : “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau : 13 Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. 14 Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, 15 Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ; và nước sẽ không còn trở thành hồng thuỷ để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. 16 Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên mặt đất.”
17 Thiên Chúa phán với ông Nô-ê : “Đó là dấu của giao ước Ta đã lập giữa Ta với mọi xác phàm ở trên mặt đất.”
18 Các con trai ông Nô-ê ra khỏi tàu là : Sêm, Kham và Gia-phét ; ông Kham là cha của ông Ca-na-an. 19 Ba ông này là con trai ông Nô-ê, và con cháu họ phân tán ra khắp mặt đất.
20 Ông Nô-ê làm nghề nông, ông là người thứ nhất trồng nho. 21 Ông uống rượu say và nằm trần truồng giữa lều. 22 Ông Kham, cha ông Ca-na-an, thấy chỗ kín của cha mình và báo cho hai anh ở ngoài biết. 23 Ông Sêm và ông Gia-phét lấy cái áo choàng, cả hai đặt áo lên vai mình, rồi đi giật lùi mà che chỗ kín của cha. Mặt họ quay về phía sau, nên họ không trông thấy chỗ kín của cha. 24 Khi tỉnh rượu, ông Nô-ê hay biết điều mà đứa con nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông ; 25 ông liền nói :
“Ca-na-an đáng bị nguyền rủa !
Nó phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó !”
26 Rồi ông nói :
“Chúc tụng ĐỨC CHÚA, là Thiên Chúa của Sêm ;
Ca-na-an phải là đầy tớ nó !
27Xin Thiên Chúa mở rộng Gia-phét,
nó hãy ở trong lều của Sêm, và Ca-na-an phải là đầy tớ nó !”
28 Sau hồng thuỷ, ông Nô-ê sống được ba trăm năm mươi năm. 29 Tổng cộng ông Nô-ê sống được chín trăm năm mươi năm, rồi ông qua đời.
1 Đây là gia đình các con trai ông Nô-ê là Sêm, Kham và Gia-phét ; sau hồng thuỷ, họ đã sinh được những người con.
2 Con của ông Gia-phét là : Gô-me, Ma-gốc, Mê-đi, Gia-van, Tu-van, Me-séc, Ti-rát. 3 Con của ông Gô-me là : Át-cơ-nát, Ri-phát, Tô-gác-ma. 4 Con của ông Gia-van là : Ê-li-sa, Tác-sít, Kít-tim, Đô-đa-nim. 5 Con cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên các đảo. Mỗi người có đất riêng tuỳ theo tiếng nói, dòng họ và dân tộc của mình.
6 Con của ông Kham là : Cút, Mít-ra-gim, Pút, Ca-na-an. 7 Con của ông Cút là : Xơ-va, Kha-vi-la, Xáp-ta, Ra-ơ-ma, Xáp-tơ-kha. Con của ông Ra-ơ-ma là : Sơ-va, Đơ-đan.
8 Ông Cút sinh ra ông Nim-rốt ; ông này là người anh hùng đầu tiên trên mặt đất. 9 Ông là thợ săn dũng cảm trước mặt ĐỨC CHÚA. Vì thế có câu : “Như Nim-rốt, thợ săn anh hùng trước mặt ĐỨC CHÚA.” 10 Khởi điểm vương quốc ông là Ba-ben, E-réc, Ác-cát, Can-nê, trong đất Sin-a. 11 Từ đất ấy, ông rời đến Át-sua và xây các thành Ni-ni-vê, Rơ-khô-vốt, Ia, Ca-lác, 12 và Re-xen, giữa Ni-ni-vê và Ca-lác, thành phố lớn. 13 Mít-ra-gim sinh ra các người ở Lút, A-nam, Lơ-háp, Náp-tu-khin, 14 Pát-rốt, Cát-lúc và Cáp-to ; từ dân này mới có dân Phi-li-tinh.
15 Ca-na-an sinh ra Xi-đôn, là con đầu lòng, rồi sinh Khết, 16 người Giơ-vút, E-mô-ri, Ghia-ga-si, 17 Khi-vi, Ác-ki, Xi-ni, 18 Ác-vát, Xơ-ma-ri, Kha-mát ; sau đó các dòng họ người Ca-na-an phân tán đi. 19 Biên giới của người Ca-na-an đi từ Xi-đôn, về phía Gơ-ra thì đến tận Ga-da, về phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim thì đến Le-sa.
20 Đó là các con ông Kham, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.
21 Cả ông Sêm cũng sinh được những người con, ông là ông tổ của mọi người con của ông Ê-ve và là anh cả của ông Gia-phét.
22 Con của ông Sêm là : Ê-lam, Át-sua, Ác-pắc-sát, Lút, A-ram. 23 Con của ông A-ram là Út, Khun, Ghe-the, Ma-sơ.
24 Ác-pắc-sát sinh Se-lác, Se-lác sinh Ê-ve. 25 Ê-ve sinh được hai con trai ; người thứ nhất tên là Pe-léc, vì thời ông đất được phân chia, người em tên là Gióc-tan. 26 Gióc-tan sinh An-mô-đát, Se-lép, Kha-xa-ma-vét, Gie-rác, 27 Ha-đô-ram, U-dan, Đích-la, 28 Ô-van, A-vi-ma-ên, Sơ-va, 29 Ô-phia, Kha-vi-la, Giô-váp. Tất cả những người đó là con ông Gióc-tan. 30 Vùng họ ở trải rộng từ Mê-sa cho đến Xơ-pha, ngọn núi phía đông.
31 Đó là các con ông Sêm, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.
32 Đó là các dòng họ của con cái ông Nô-ê, theo gia đình, theo dân tộc của họ. Con cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên mặt đất, sau hồng thuỷ.